Khi chúng ta trưởng thành, có ý thức về sự hiện diện tồn tại của mình trên cõi đời này, tôi tin chắc chúng ta đã từng ít nhiều suy nghĩ đến một trong những vấn đề sau:
1. Bởi đâu có vũ trụ này?
2. Bởi đâu có bản thân chúng ta?
3. Đâu là mục đích của cuộc đời?
4. Chết rồi sẽ đi về đâu?
5. Làm điều thiện ai thưởng công cho?
6. Làm điều ác, ai sẽ phạt tội?
7. Ai sẽ thỏa mãn khát vọng hạnh phúc tuyệt đối của chúng ta?
Và từ những câu hỏi căn bản hầu như không có lời giải đáp nào được tất cả mọi người chấp nhận như vậy, với kiến thức và tầm nhìn rất hạn hẹp của mình, tôi quan niệm tôn giáo đơn giản là sự lựa chọn về niềm tin. Với lý trí và sự tự do vốn có của con người, có 2 câu hỏi quan trọng được đặt ra cho bạn lựa chọn:
1. Ban tin hay không tin có Đấng Tạo Hóa?
2. Nếu bạn tin có Đấng Tạo Hóa, bạn sẽ theo tôn giáo nào? Niềm tin và tôn giáo ấy có giúp gì được cho bạn không?
Xét về câu hỏi thứ nhất, “chúng ta thấy rằng, mặc dù trên bề mặt con người rất khác nhau về tuổi tác, địa vị, giai cấp, học vấn, giống phái, chủng tộc, kinh nghiệm đời, quan điểm chính trị, v.v., cả nhân loại chỉ ở một trong hai phe: Một phe cho rằng có Đấng Tạo Hoá tạo ra vũ trụ trong đó có con người; một phe cho rằng vũ trụ tự nhiên mà có. Trong cả hai phe, có đủ các chuyên gia khoa học có nhiều năm nghiên cứu trong các ngành khoa học liên đới. Như vậy vấn đề Thuyết Tiến Hoá không chỉ nằm trong mặt phẳng vật chất, và tâm trí mà nằm trong mặt phẳng tâm linh, trên đó con người phải tự hỏi và phải trả lời cho chính mình: Có Đấng Tạo Hóa hay không?”
Cuối bài viết này bạn có thể tham khảo 2 bài viết tiêu biểu cho sự bảo vệ niềm tin vào sự hiện diện của Đấng Tạo Hóa. Dầu gì đi nữa, tôi tin rằng cũng có rất nhiều biện chứng, tài liệu chứng minh ngược lại.
Xét về câu hỏi thứ hai, có người chọn tôn giáo theo truyền thống gia đình, có người qua quá trình tìm hiểu, qua xã hội, cộng đồng tác động, qua sự cảm nhận riêng của mình mà đến với tôn giáo. Sự chuyển đổi từ tôn giáo này qua tôn giáo khác, bỏ đạo, từ chối niềm tin trước đây của mình cũng không phải hiếm.
Quan điểm của tôi trước 2 câu hỏi này là đó là sự lựa chọn rất riêng của mỗi người. Quan trọng hơn hết tôi quan niệm tôi cần tìm hiểu con người để suy ra mối liên kết của họ với tôn giáo chứ không phải theo chiều ngược lại, tìm hiểu hạn hẹp về tôn giáo để suy ra con người.
Tôi sẽ tìm hiểu con người, lối sống của bạn để từ đó biết được bạn theo “đạo” nào. “Đạo” ở đây là con đường hướng thiện mà bạn chọn, con người lý tưởng mà bạn hướng tới. “Đạo” ở đây chỉ đơn giản là đạo làm người. Bạn sống trong xã hội, với “tính bổn thiện”, được giáo dục, bạn biết được điều tốt và điều xấu, bạn biết cách đối xử với nhau cho hợp tình hợp lý, hợp lẽ công bằng. Bạn có biết lắng nghe và chia sẻ hay “đạo” của bạn là chủ nghĩa cá nhân, mạnh được yếu thua, dửng dưng, vô cảm đối với mọi người?
Tôi sẽ không đi theo cách ngược lại, tìm hiểu hạn hẹp về tôn giáo bạn rồi suy ra con người bạn. Giả sử tôi biết có một số người thuộc tôn giáo bạn làm điều xấu, đã từng hại tôi và gia đình tôi, vậy bạn chắc chắn là người xấu khi theo tôn giáo đó? Trong xã hội luôn luôn có người tốt, người xấu, bạn có công nhận với tôi rằng không phải ai cứ đi nhà thờ, đọc kinh, ăn chay, niệm phật thì người đó đều là người tốt. Ca dao Việt Nam cũng có câu rất hay: “Thà ăn mặn mà nói ngay, còn hơn an chay mà nói dối”. Dầu gì đi nữa khi một trong những anh em mình vấp ngã, làm điều ác, không theo sự hướng dẫn của đạo, đó cũng chỉ là điều bình thường. Phàm con người ai cũng có những giới hạn, yếu đuối của mình, bạn theo một tôn giáo nhất định nào đó, bạn có những hướng dẫn để làm người tốt, bạn có niềm tin, sự răn đe để sợ làm điều xấu nhưng theo hay không theo những hướng dẫn đó và có ngại làm điều xấu hay không là do chính cá nhân bạn quyết định.
Giả sử một người nào đó dẫn lại trước đám đông một người phạm tội và nói với đám đông rằng: "Ai trong các ông cảm thấy mình hoàn toàn trong sạch, hãy đứng ra, xét xử người này đi." Liệu có ai đứng ra không? Nhưng nếu hỏi: "Người này đã phạm tội gì (luật gì)?" thì sẽ có rất nhiều người lên tiếng. Chúng ta chỉ có thể phê phán, xét xử người khác dựa trên điều lệ hoặc pháp luật được định trước chứ hoàn toàn không thể dựa vào sự trong sạch của mình.
Hơn nữa, nếu bạn vì thành kiến với đạo mà vô lý làm hại, làm tổn thương người trong đạo khi họ thật sự là người tốt thì xét cho cùng ai là người tốt ai là người xấu? Bạn vinh vào thành kiến của đạo để biện hộ cho hành động sai trái của mình, vậy bạn không sợ người khác có thành kiến với bạn? Bạn quan niệm người có đạo khi làm điều xấu thật đáng chê cười còn bạn vì không có đạo nên không cần bận tâm gì cả, tự do làm những gì bạn thích?
Tôi ngại khi đưa ra nhận xét của mình về bất kì tôn giáo nào vì tôi biết kiến thức và tầm nhìn mình hạn hẹp. Nhưng tôi không ngại đưa ra nhận xét của mình về bạn bè tôi khi tôi đã thật sự hiểu tôi và hiểu họ. Đối với tôn giáo, tôi quan niệm mình hãy có cái nhìn khách quan. Tôi sẽ không quan trọng bạn theo tôn giáo nào, có hay không niềm tin vào Đấng Tạo Hóa. Tôi cũng sẽ không thuyết giáo, cố gắng thuyết phục bạn theo tôn giáo tôi. Nếu bạn hiểu tôi và cảm thấy thú vị khi tìm hiểu về tôn giáo, bạn có thể tìm hiểu và có thể lựa chọn. Sự tìm hiểu và lựa chọn vào con người cũng vậy. Vấn đề ở đây chỉ là thứ tự trước sau.
Bạn không thể dựa vào tầm nhìn hạn chế của mình về tôn giáo để suy ra con người nhưng hãy tìm hiểu con người để biết được cái “Đạo” của người ấy.
Rồi tôi vào học ngành vật lý của Trường Ðại Học Tổng Hợp Hà Nội. Tôi phải học triết học duy vật một cách có hệ thống, trong đó sợi chỉ đỏ xuyên suốt là quan điểm vật chất có trước, vật chất đẻ ra ý thức, vật chất quyết định ý thức. Chỉ những gì con người cảm nhận được trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua các phương tiện máy móc, thì mới tồn tại (hay hiện hữu). Như thế, chủ nghĩa duy vật đương nhiên chối bỏ sự hiện hữu của Ðức Chúa Trời, vì không ai có thể sờ đụng hoặc cảm nhận được Ngài nhờ các giác quan của mình. Bấy giờ tôi cảm thấy chủ nghĩa duy vật là đúng. Ai tin có Chúa tôi đều cho là duy tâm, là mê tín dị đoan cả. Lạy Trời mưa xuống, Con người tưởng rằng có thể trực tiếp đến với Ðức Chúa Trời, đến với Cha Thiên Thượng. Chúa Giê-xu cho biết: tội lỗi đã tạo ra một hố ngăn cách giữa nhân loại với Ðức Chúa Trời, và bây giờ chính Ngài là chiếc cầu duy nhất bắc qua hố thẳm ấy. Ai không tin nhận Ngài thì không thể đến cùng Ðức Chúa Trời được. Ngài cũng phán: "Này, Ta đứng ngoài cửa mà gõ. Nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa cho, Ta sẽ vào ăn bữa tối với người đó, chỉ người với Ta". |
Dựa trên kết luận này, Darwin tiếp tục đi xa hơn nữa đưa ra lý thuyết Chọn Lọc Tự Nhiên (CLTN) (Natural Selection) để giải thích nguồn gốc các loài trong thiên nhiên. Theo ông, tất cả các loài hiện nay bắt nguồn từ một số ít loài đơn giản hơn, gọi là loài cha mẹ. Trong loài cha mẹ này có một số biến dị nào đó do thiên nhiên tạo ra. Nếu biến dị đó có lợi cho sự sinh tồn của loài đó, thì biến dị đó cứ được củng cố, và theo thời gian, loài đó phát triển thành loài mới và sinh tồn mạnh mẽ. Ngược lại, nếu biến dị đó có hại cho loài, thì nó sẽ bị diệt chủng. Trong khi yếu tố chính trong quá trình gia hóa và cấy giống là con người, yếu tố chính trong quá trình CLTN là thiên nhiên. Chính thiên nhiên cung cấp biến dị, tạo điều kiện cho quá trình tiến hóa; cũng chính thiên nhiên "chọn" cho loài nào sống vì nó thuận với điều kiện sống của môi trường, và tiêu diệt loài nào đó vì nó có những biến dị nghịch với môi trường. Trong cuốn Nguồn Gốc Các Loài, Darwin chỉ bàn về những nguyên tắc căn bản của TTH. Vào năm 1871, ông cho xuất bản cuốn sách nữa, Sự Ra Đời Của Con Người (The Descent of Man), trong đó nguồn gốc con người mới được bàn đến một cách cụ thể. Trong cuốn sách này, Darwin cho rằng con người có thể xuất thân từ những động vật thấp hơn như khỉ, từ nhận xét rằng cấu trúc cơ thể và sự phát triển bào thai của các loài này có nhiều điểm tương đồng. Do các công trình này, Darwin được nhiều người xem là cha đẻ của TTH. Tiếp theo Darwin, khoa học gia người Nga Oparin đề ra thuyết tạo sinh vô cơ (abiogenesis) để bổ xung thêm cho thuyết tiến hoá Darwin. Thuyết tạo sinh vô cơ là một chủ thuyết cho rằng sự sống bắt đầu bằng sự kết hợp ngẫu nhiên của các chất vô cơ (như Oxigen, Hydrogen, Nitrogen, Carbon) do sấm sét làm xúc tác. Từ đó, TTH Darwin-Oparin được xem như nền tảng khoa học cho các chủ nghĩa duy vật, trong đó có chủ nghĩa cộng sản (CNCS). Cơ sở lý thuyết của CNCS là duy vật biện chứng lịch sữ quan, cũng là một kiểu tiến hóa, theo đó, xã hội con người tiến hóa từ tổ chức thấp lên cao, nhờ vào giai cấp đấu tranh, cũng như sự tiến hóa của các loài từ mức thấp lên mức cao vậy, do quá trình chọn lọc tự nhiên vậy. TTH cũng được một số người cổ xúy như là đồng minh cho Phật giáo, vì về bản chất, triết lý tôn giáo Á Đông này cũng là một kiểu tiến hóa của "tâm thức" nhờ vào tu hành. Tại Việt Nam, TTH có môi trường để phát triển. TTH không còn là một bộ môn khoa học trong trường nữa mà một chính sách của nhà nước để đào tạo nên công dân xã hội chủ nghĩa. Điều kỳ lạ là có một phó tiến sĩ người Việt trong nước, sinh ra và lớn lên tại miền Bắc, tốt nghiệp hậu đại học từ Đông Âu cũ (cộng sản), chấp nhận TTH như là một hiện thực và dùng nó để chỉ trích các chính sách của nhà nước CSVN [2]. Có một người Việt Nam khoa bảng khác tại hải ngoại có trình độ tiến sĩ khoa học, có khuynh hướng thân cộng sản cũng khẳng định TTH là một dữ kiện (fact) [3], và dùng nó để chống báng Đức Chúa Trời. Trong khi đó, có tiến sĩ Phan Như Ngọc [4], cũng đã từng lớn lên trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa tại miền Bắc Việt Nam, từng giảng dạy các bộ môn duy vật tại các trường đại học Hà Nội, đã từ bỏ chủ nghĩa duy vật mà trở thành Cơ Đốc nhân. Trên thế giới cũng có rất nhiều khoa học gia duy vật, nhưng cũng có các khoa học gia khác như tiến sĩ vũ trụ học, Hugh Ross trở nên Cơ Đốc nhân vì không thể chứng minh được là vũ trụ tự nhiên mà có [5]. Do đó, chúng ta thấy rằng, mặc dù trên bề mặt con người rất khác nhau về tuổi tác, địa vị, giai cấp, học vấn, giống phái, chủng tộc, kinh nghiệm đời, quan điểm chính trị, v.v., cả nhân loại chỉ ở một trong hai phe: Một phe cho rằng có Đấng Tạo Hoá tạo ra vũ trụ trong đó có con người; một phe cho rằng vũ trụ tự nhiên mà có. Trong cả hai phe, có đủ các chuyên gia khoa học có nhiều năm nghiên cứu trong các ngành khoa học liên đới. Như vậy vấn đề TTH không chỉ nằm trong mặt phẳng vật chất, và tâm trí mà nằm trong mặt phẳng tâm linh, trên đó con người phải tự hỏi và phải trả lời cho chính mình: Có Đấng Tạo Hóa hay không? Trong bài này chúng tôi không trình bày quan điểm chủ quan của chúng tôi về khía cạnh khoa học của TTH, mà bàn về đặc tính tâm lý và tâm linh của những người ủng hộ cho thuyết tiến hóa, đặc biệt là người Việt Nam, và xin hoãn bàn về khía cạnh khoa học trong những bài sau. Ý tưởng chúng tôi trong bài này dựa vào các sự kiện quan sát khi tiếp xúc với những người ủng hộ thuyết tiến hoá trong cộng đồng người Việt Nam tại hải ngoại. Theo nhận xét của chúng tôi, các người ủng hộ TTH có các điểm chung sau đây: 1- Nói nhiều về Darwin, nhưng không đọc sách của Darwin: Các tác phẩm của Darwin được rất nhiều người đề cao tới như là một công trình khoa học, là nền tảng cho chủ nghĩa duy vật. Người ủng hộ TTH nhắc tới Darwin như là người vô thần đầu tiên đánh bại Thánh Kinh, vì Thánh Kinh dạy rằng chính Đức Chúa Trời tạo dựng ra vũ trụ trong đó có loài người. Họ biểu lộ sự ngưỡng mộ Darwin trong các bài viết của họ, với các tựa đề giựt gân như "Thượng Đế đã chết," "Thượng Đế hấp hối," v.v. nhại theo kiểu triết gia Friedrich Nietzsche. Nhưng nếu họ đọc sách Darwin thì sẽ biết ông không phải là người vô thần như họ muốn. Nếu chúng ta muốn thật sự biết quan điểm siêu hình (metaphysical) của Darwin thì chúng ta phải đọc NGCL. Trong đoạn kết của cuốn sách này, Darwin đã viết như sau: "Quan niệm về sự sống này [tức là TTH] có vài điểm mạnh. Đầu tiên được Đấng Tạo Hóa truyền hơi thở vào để thành một hay vài thể sống đơn giản nhất. Từ một sự bắt đầu đơn giản đó đã và đang tiến hóa ra vô số những sinh thể đẹp và kỳ diệu nhất trong khi hành tinh này vẫn xoay vần theo đinh luật hấp dẫn cố định." (There is grandeur in this view of life, with its several powers, having been originally breathed by the Creator into a few forms or into one; and that, whilst this planet has gone cycling on according to the fixed law of gravity, from so simple a beginning endless forms most beautiful and most wonderful have been, and are being, evolved.) [6] Chúng ta thấy rằng sau khi bàn về TTH trong hơn 600 trang sách, cuối cùng Darwin mới bày tỏ quan điểm siêu hình của ông trong một câu ngắn ngủi trong phần kết luận. Quan điểm của ông là có Đấng Tạo Hóa; Ngài đã tạo dựng ra một số sinh thể đơn giản đầu tiên; và sau đó Ngài đã để cho các sinh thể này tự do tiến hóa mà không can dự vào. Nổ lực của ông không nhằm vào việc trả lời câu hỏi là có Đấng Tạo Hóa hay không mà là sự liên hệ của Ngài với thế gian là bao nhiêu. Quan điểm này "có công" bảo vệ Đấng Tạo Hóa khỏi bị thế gian trách móc vì những đau khổ ở đời (vì Đấng Tạo Hóa không có trách nhiệm gì với thế gian nữa sau khi đã tạo dựng đầu tiên lên vũ tru.) Thật không may cho Darwin, công trình của ông được nhiều người nhận quàng là cơ sở khoa học cho chủ nghĩa vô thần (atheism), là chủ nghĩa không tin có Đấng Tạo Hóa. Nhưng có bao nhiêu người trên đời này đúng nghĩa là vô thần? Người Mỹ có câu châm ngôn: "Ở dưới hầm trú cá nhân không có ai là vô thần cả." Khi còn được sống, con người thích làm theo sở thích của mình. Những điều mình thích có thể trái ý với Đức Chúa Trời. Nhưng khi đối diện với sự chết con người mới biết là mình sẽ không còn dịp làm những điều mình thích nữa. Khi đó bản ngã của con người mới có dịp hạ xuống để giúp con người nhận biết Đức Chúa Trời. Như vậy sự chết không phải là hoàn toàn vô ích cho con người, là loài có lý trí mạnh. Có sự chết con người mới biết mình nhỏ nhoi trước vũ trụ. Trước sự chết niềm tin con người mới thật sự được chứng nghiệm hay không. Chỉ có sự chết mới có đủ sức mạnh để thách thức lý trí con người một cách tối hậu mà thôi. Như vậy cái mà chúng ta gọi là "vô thần" thật sự là "chối bỏ Đức Chúa Trời." Khi chối bỏ Ngài, con người cần một cái cớ "hữu lý." Cái cớ đó chính là TTH. Vì họ chỉ cần một cái cớ, nên không cần tìm hiểu xem Darwin tin điều gì, viết điều gì, làm sao đi tới cái kết luận của ông. Họ lười biếng tư duy, chỉ mù quáng chụp lấy công trình của ông, thêm thắt chút đỉnh tùy tiện, rồi gọi đó là siêu hình học của mình. Mỗi khi tâm linh đã có khuynh hướng chống báng Đức Chúa Trời, thì cả tâm linh lẫn não bộ không cần phải động nữa. Họ chụp vội lấy Darwin như "thấy người sang bắt quàn làm họ" mà không buồn cho tác giả một chút ít kính trọng bằng cách bỏ chút thì giờ đọc qua tác phẩm của ông ta. 2- "Thuyết tiến hoá là một dữ kiện (fact)": Tiến hóa nhân lập đi lập lại câu nói này với một âm điệu rất "khoa học." Nhưng không may nó phơi bày ra ánh sáng một khủng hoảng trong hệ thống tư duy của họ: Nếu đã là "thuyết" thì không thể là "dữ kiện" được. Dữ kiện là một cái gì sáng tỏ, hoàn chỉnh, "đụng chạm" được, "thấy" được, "sờ" được, v.v. Thuyết là một "câu chuyện" được diễn dịch theo ý riêng dựa vào một số dữ kiện. TTH dựa trên một số dữ kiện quan sát của Darwin về sự giống nhau của các loài, từ đó Darwin diễn dịch ra là loài nào giống nhau ắt phải có chung một nguồn gốc. Có thể mọi người đồng ý với Darwin về sự giống nhau của một số loài, nhưng không phải mọi người đều đồng ý với ông rằng nếu chúng đã giống nhau, ắt hẵn phải có chung nguồn gốc. Do vậy, TTH vẫn còn là một lý thuyết chứ không thể là một dữ kiện được. Ngay cả như thuyết Big Bang - là lý thuyết về nguồn gốc của vũ trụ, chặc chẽ hơn nhiều lần về mặt lý thuyết lẫn thực nghiệm so với thuyết tiến hóa, vẫn được gọi là thuyết chứ vẫn không được xem là dữ kiện. Nếu một điều đã là dữ kiện, thì chúng ta không cần nghiên cứu thêm để hoàn chỉnh nó. Nhưng ngày nay, các khoa học gia tiến hóa vẫn tiếp tục tìm tòi trong lãnh vực này; có thành quả khoa học củng cố thuyết tiến hoá, có thành quả chống lại. Vì không đọc Darwin, nên tiến hoá nhân không biết Darwin đã dành ra ít nhất là một chương để bàn về các yếu điểm, trong đó có sự hiếm hoi về bằng chứng di tích, trong lý thuyết của ông (Chương Sáu: Difficulties of the Theory). Do sự hiếm hoi này, mà cho tới bây giờ sau gần 150 năm người ta vẫn còn đào xới để hy vọng tìm ra nhưng di tích về các loài chuyển tiếp (transitional species - sẽ bàn tới trong các bài sau) để chứng nghiệm cho lý thuyết Darwin. Do vậy, khi một người muốn trình bày cho đọc giả một lý thuyết khoa học một cách khách quan, người đó cần phải trình bày cả hai mặt, thuận và lợi. Nhất là người đó lại có học vị tiến sĩ khoa học, đã từng giảng dạy tại trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn, đã từng có các công trình nghiên cứu khoa học, thì sự đòi hỏi trong khi viết lách phải cao hơn người khác. Nhưng trong các bài viết của Giáo Sư Tiến Sĩ Trần Chung Ngọc, là xướng ngôn viên cho TTH người Việt Nam, đọc giả ít thấy ông trình bày dữ kiện khoa học mà hay nghe ông trích dẫn câu nói của các tiến hóa nhân khác về TTH. Như vậy niềm tin của tiến hóa nhân là niềm tin của kẻ khác, và chúng ta biết rằng không phải lúc nào người khác cũng đúng. Như vậy, mặc dù Tiến Sĩ Trần Chung Ngọc đã từng đi qua sự huấn luyện cam go của người làm khoa học: chứng, phản chứng, thu thập, tổng hợp, và phân tích dữ kiện, v.v.- đứng trước vấn đề tâm linh, ông cũng giống như đại đa số các người khác. Trong khi đó, niềm tin của Cơ Đốc nhân là tiếng thét của chính linh hồn mình về sự Chúa Jesus là ai. Khi "Ðức Chúa Jêsus đã vào địa phận thành Sê-sa-rê Phi-líp, bèn hỏi môn đồ, mà rằng: Theo lời người ta nói thì Con người là ai? Môn đồ thưa rằng: Người nói là Giăng Báp-tít; kẻ nói là Ê-li; kẻ khác lại nói là Giê-rê-mi, hay là một đấng tiên tri nào đó. Ngài phán rằng: Còn các người thì xưng ta là ai? Si-môn Phi-e-rơ thưa rằng: Chúa là Ðấng Christ, con Ðức Chúa Trời hằng sống." (Ma-thi-ơ 16:13-16) Đây là lần đầu tiên có một người thốt lên điều thú nhận về Chúa Jesus là Đấng Christ. Lời thú nhận này đã đóng dấu vào người đó dấu ấn của sự cứu rỗi đời đời trong Chúa Jesus Christ. Niềm tin của Cơ Đốc nhân không dựa trên điều kẻ khác nói về Đấng Christ, về Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, mà là sự thú nhận của chính mình về Ngài. Do vậy khi có một giáo hoàng hay "giám mục" hay "mục sư" nào đó nói khác đi về Chúa Jesus Christ, hay công nhận TTH là đúng, Cơ Đốc nhân thật vẫn là người thú nhận trước đám đông và trong sự riêng tư với Ngài, là chính Ngài là Đấng Christ, là chủ tể của vũ trụ này, trong đó có loài người chúng ta. |
--(Khuong Nguyen)
thi ra la de viet Blog!
ReplyDeletethanks for this Entry.
ReplyDeleteBài viết hay và có dẫn hai tài liệu rất lý thú!
ReplyDelete